Cấu tạo hóa học của thuốc tê:
Tiêm thuốc tê là một thủ thuật không thể thiếu trong nha khoa
Tất cả các thuốc gây tê tại chỗ đều có một chuỗi trung gian liên kết một amin ở một đầu với một vòng thơm trên mặt kia. Kết thúc amin là hydrophilic, và cuối thơm là lipophilic. Sự biến đổi của các đầu amin hoặc thơm làm thay đổi hoạt tính hóa học của thuốc.
Có hai loại thuốc gây tê cục bộ cơ bản, amino amit và amino este. Amit amide có một liên kết amid giữa chuỗi trung gian và kết thúc thơm, trong khi amino ester có một liên kết ester giữa chuỗi trung gian và kết thúc thơm.
Amino este và amino amit khác nhau về nhiều mặt. Amino este được chuyển hóa trong huyết tương thông qua pseudocholinesterase, trong khi amino amit được chuyển hóa trong gan. Amino este là không ổn định trong dung dịch, nhưng amino amit rất ổn định trong dung dịch. Amino este nhiều khả năng hơn amino amit gây dị ứng.
Tiêm thuốc tê trong điều trị nha khoa
Các amino amit thường được sử dụng bao gồm lidocaine, mepivacaine, prilocaine, bupivacaine, etidocaine, và ropivacaine và levobupivacaine. Các amino este thường được sử dụng bao gồm cocaine, procaine, tetracain, chloroprocaine, và benzocaine.
Bổ sung thêm các thuốc gây tê cục bộ có sẵn lâm sàng, cụ thể là ropivacaine và levobupivacaine, đại diện cho việc khai thác enantiomer S của các hóa chất này để tạo ra các chất gây mê kém độc, mạnh hơn và hoạt động lâu hơn.
Gần đây hơn, công nghệ DepoFoam (Pacira Pharmaceuticals, Inc, San Diego, Calif) đã được sử dụng để tạo ra liposomal bupivacaine (Exparel), một dạng bupivacaine hoạt động lâu hơn, trong đó gây tê được truyền qua một hệ thống liposome. Liposome Bupivacaine đã được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) phê duyệt vào năm 2011, được sử dụng để giảm đau sau phẫu thuật bằng cách tiêm liều đơn tại nơi phẫu thuật. Sự phóng thích chậm của bupivacaine từ xe liposome dẫn đến giảm yêu cầu về opioid sau phẫu thuật trong vòng 24 giờ.
Cơ chế tác động của thuốc tê:
Cơ chế tác động của thuốc gây tê
Thuốc gây tê cục bộ tạo ra gây tê bằng cách ức chế kích thích sự kết thúc của dây thần kinh hoặc bằng cách ngăn chặn sự dẫn truyền dây thần kinh ngoại vi. Điều này đạt được bằng thuốc gây mê có thể đảo ngược và khử hoạt tính các kênh Natri. Sodium chảy qua các kênh này là cần thiết cho sự khử cực của màng tế bào thần kinh và sự lan truyền của các xung xung quanh dây thần kinh. Khi một dây thần kinh mất khả năng khử cực và khả năng truyền xung lực, cá thể sẽ mất cảm giác trong vùng do dây thần kinh cung cấp.
Thứ tự áp lực của thuốc gây tê cục bộ cho các trạng thái kênh natri khác nhau thì tốt hơn là không hoạt động. Do đó, trạng thái mở của kênh natri là mục tiêu chính của các phân tử gây mê cục bộ. Việc ngăn chặn các tiềm năng hoạt động truyền là do chức năng của tần số khử cực. Cơ chế khối cảm giác đau mà không có khối cơ vẫn còn chưa rõ ràng.
Trên đây là một số những thông tin quan trọng về thuốc tê thông dụng trong điều trị nha khoa và cơ chế tác động của nó đối với thể trạng cũng như tình hình sức khỏe của bệnh nhân. Với những kiến thức chuyên môn cao, kinh nghiệm thực tiễn điều trị răng lâu năm, bác sỹ Lê Đức Lánh chắc chắn sẽ khiến bạn vô cùng hài lòng, đồng thời nâng cao được trình độ chuyên ngành cũng như tay nghề kỹ năng phẫu thuật cho các học viên là bác sỹ, nha sỹ.